Đây
là bài thuốc Thần dược cứu mệnh của ông Nguyễn An Định, đăng trên báo Long An –
thứ năm từ 21-4 đến 24-4 1997, năm thứ 34, số 29/97 (1509).
Ông Nguyễn
An Định, cộng tác viên của Báo Long An, hiện nghỉ hưu tại TP.HCM. Với tấm lòng
thiết tha với vốn quý y học cổ truyền, lại thêm mối cảm tình với nghề y trong
gia tộc (ông là trưởng nam của nhà ái quốc Nguyễn An Ninh), từng có lúc hành
nghề y dược. Vừa qua ông có bài viết sau đây; chúng tôi xin giới thiệu, như một
tư liệu để bạn đọc tham khảo. Tác giả và tòa soạn báo rất mong nhận được ý kiến
đánh giá của các nhà chuyên môn về nội dung y dược học nêu trong bài viết.
Tôi, BS
Lâm Hữu Hòa, xin trích phần nói về điều trị Sốt xuất huyết (SXH):
THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 1
Có quyển sách thuốc Nam, in đầu thế kỷ
20 mang tên “Thần dược cứu mệnh”, giới thiệu một bài thuốc thần “cứu người sau
bốn khắc”. Trong quyển “Hai trăm bài thuốc quý” của ông Lê Văn Tĩnh, Sa Đéc, in
khoảng năm 1940, cũng có một bài giống y như vậy, đề là “chủ trị lâm ban, ôn dịch
và các bệnh nan y, công hiệu như thần, bệnh lui sau 60 phút”.Quyển “Thần dược cứu
mệnh” mở đầu bằng câu “Con người dẫm lên thuốc thần mà không biết, nên vẫn chết”.
Vị thuốc thần đó chính là vị thuốc có tên “Địa long” – con rồng trong đất. Ở
Trung Quốc và Việt Nam, vị Địa long có mặt trong nhiều thang thuốc trị bệnh hiểm
nghèo hoặc để cấp cứu người sắp chết. Nhân dân Hàn Quốc có thói quen ăn cháo Địa
long trứơc khi ngủ, để tẩm bổ và để trị bá bệnh. Đêm đêm, cháo Địa long có bán
tại các thị trấn và ngay cả ở thủ đô. Gần đây trong thời gian Thế vận hội
Olempic Seoul, vì ngại người nước ngoài không hiểu vị thuốc quý mà coi thường
nhân dân Nam Hàn, nên Chính phủ đã cấm bán cháo Đia long trong thời gian Thế vận
hội. Vậy “Địa long” là gì? Nó chính là con trùn đất, loại có màu sẫm đen, ánh
xanh ở cổ, to bằng đầu đũa hoặc to hơn, khi đào trúng nó, nó không giãy giụa,
co thành một nùi tròn nằm im.
“Thần dược cứu mệnh” phân tích tính dược
của trùn đất, cho rằng nó có khả năng: làm dai mạch máu và dây thần kinh, nối
liền các chỗ dây thần kinh bị dứt, các mạch mạu bị nứt rách, hồi phục sự sống
cho các tế bào đã bị hoại tử, tách ra và đào thải các tế bào đã chết thối, hết
phương phục hồi, vực dậy vô cùng nhanh chóng sức chống trả bệnh tật của con người
(ngày nay gọi là vực dậy sức miễn dịch của cơ thể). Cho nên, chỉ sau sáu mươi
phút bệnh phải lui, mọi hiện tượng lâm sang đều biến mất. Do đó Địa long được
dùng và công hiệu rất nhanh chóng trong các trường hợp: cửu khiếu xuất huyết,
não bộ xuất huyết, ngũ tạng, lục phủ xuất huyết, phù thận, phù gan, phù toàn
thân, phù tim, đột ngột phát điên không rõ nguyên do có sốt hoặc không có sốt,
bí đại tiểu tiện, bí trung tiện, bụng báng trướng nước, “mắc đằng dưới” (bạch đới
nặng, ngày đêm đáy quần ướt sũng hôi hám, người ốm tong, xanh xao…) Ở hai quyển
sách, hai bài thuốc giống nhau, có một nét đặc biệt nổi bật “bênh lui sáu mươi
phút sau khi uống thuốc”, mà lại chuyên trị những ca rất khó trị. Vì vậy nói
“thần dược cứu mệnh” thật không ngoa chút nào. Lúc nhỏ tôi rất mê ngành y dược.
Các sách chữ Pháp dành cho các y bác sĩ nghiên cứu kỹ về nhi khoa, sản khoa, đa
khoa, giải phẫu… đọc rất khó hiểu và rất đắt tiền, tôi cũng ráng mua để nghiên
cứu. Hai quyển sách thuốc: “thần dược cứu mệnh” và “200 bài thuốc quý” tôi coi
như vàng ngọc. Đi kháng chiến, hai quyển đó nằm dưới đáy ba lô tôi, theo tôi suốt
chín năm, giúp tôi trị bệnh cứu người. Chỉ riêng năm 1953 và nửa đầunăm 1954,
tôi đã cứu gần trăm người, coi như giật lại từ tay thần chết. Trong cuộc giành
giật đó, có lần tôi đã chạm trán cả với một vị danh y, mà trước đó các nhà điền
chủ lớn ở Cần Thơ, Rạch Giá, Sóc Trăng, Bạc Liêu thường đưa xe hơi hoặc ghe máy
đến tận nhà để rước ông. Năm đó ở vùng Giáp bốn tỉnh này có một đợt dịch bệnh,
phần lớn là các cháu nhỏ từ 9 -10 tuổi đến 15 -17 tuổi, đa số là gái, các cháu
trai và người lớn ít bị hơn. Hiện tượng là xuất huyết nội tạng, xuất huyết cửu
khiếu, xuất huyết dưới da (nổi vệt đỏ bầm tím, xanh đen khắp người) hôn mê bất
tỉnh nằm im như xác chết suốt bảy ngày, có khi lâu hơn, mạch đã lạc không bắt
được, hơi thở rật yếu khó nhận thấy, da tái xanh, tay chân lạnh ngắt (nhưng vẫn
còn mềm dịu, nếu cứng đơ thì đã bị đem chôn rồi) Lần đó cháu gái hôn mê đã 8
ngày, mình đầy các vệt tím. Gia đình đã rước được vị danh y nổi tiếng nói trên,
nhưng ông đến xong lại từ chối không trị bệnh cho cháu, chỉ vì trong số 30-40 vệt
bầm đen trên da cháu, có một vệt đen kịt to bằng đầu ngón tay, nằm đúng giữa
hai đầu lông mày. Ông cho đó là điềm báo không thể cứu sống. Sợ mất uy tín thầy,
nên ông không hốt thuốc. Tình cờ tôi đến, thấy má cháu đang quỳ lạy van xin ông
cứu cháu, mà ông một mực chối từ. Nghe mạch tại tim, thấycòn tiếng thoi thóp rất
yếu, tôi nói:
– Thưa thầy, thầy quyết bỏ, thì con xin
phép thầy cho con cứu cháu.
– Em mà cứu được hả? Có thấy vệt đen
ngay huyệt Tam tinh không mà em liều mạng vậy? Tôi hỏi em, sau khi em đổ thuốc
thì bao lâu cháu tỉnh lại? Em nói được, tôi sẽ để cho em đổ thuốc.
– Thưa thầy bài thuốc của con, cháu uống
xong chỉ độ 63-65 phút sau cháu sẽ mở mắt.
Thầy trợn tròn mắt, đỏ mặt tía tai, lườm
tôi rồi quát:
–Chủ nhà đâu, đem cho tôi cái đồng hồ
bàn.
Ông dằn mạnh đồng hồ lên bàn, nói:
– Được rồi! Có đồng hồ đó. Tôi ở lại coi
cháu nhỏ tỉnh dậy.
Có kinh nghiệm cả trăm lần rồi, tôi rất
tin ở bài thuốc. Tôi đi nấu rồi cạy răng đổ cho cháu uống. Quả nhiên tới phút
63 cháu mở mắt, đến phút thư 65 cháu đòi đỡ ngồi dậy, đòi uống nước ăn cháo,
đòi cho đi tiêu tiểu. Tiếng cháu rất yếu, hai mắt cháu toàn tròng trắng, không
thấy tí tròng đen nào. Nhưng tay chân cháu đã ấm, da hết tái xanh. Rõ ràng cháu
đã sống lại. Ông thầy thuốc với hai tay lên đầu, lột khăn đóng xuống chắp tay
trước ngực nói:
– Lúc nãy em kêu tôi bằng thầy, bây giờ
tôi phải lạy em ba lạy mà kêu em bằng thầy. Xin thầy thông cảm cho, vì thầy trẻ
quá, nhỏ hơn con tôi nhiều, do đó tôi không quỳ lạy sợ tổn thọ cho thầy. Tôi chỉ
xin xá đủ ba xá thay cho ba lạy. Nói xong ông trịnh trọng xá tôi ba xá, đầu cúi
sâu thật nghiêm túc. Sau đó ông xin tôi bài thuốc.
THẦN DƯỢC CỨU MỆNH 2
Cuối năm 1969, ở Hà Nội có đợt dịch bệnh
gọi là sốt xuất huyết, được xác định xuất hiện lần đầu tiên ở nước ta. Các cháu
nhỏ chết la liệt, tại bệnh viện lớn có ngày 15-17 cháu chết. Nghe nói có dịch bệnh
gây chết tràn lan, tôi đến các bệnh viện xem. Thấy các dạng bệnh giống y như
tôi đã từng gặp, tôi viết ngay một bài, nói rõ về bệnh và phổ biến bài thuốc
“Thần dược cứu mệnh”, gởi lên Bộ trưởng Bộ Y tế lúc bấy giờ là bác sĩ Nguyễn
Văn Hưởng. Bác gởi phổ biến đi các tỉnh, đồng thời gởi đăng ngay trên báo “Hà Nội
mới”. Trong bài viết của tôi có câu: “Đề nghị dùng thuốc này cho các ca bệnh nặng
nhất. Bảo đảm 100% sẽ không có tử vong”. Bác sĩ Hưởng đã xóa bỏ đoạn “… Bảo đảm
100%…”. Đọc báo thấy mất đoạn đó, tôi chạy ngay đến nhà bác Bộ trưởng. Tôi nói:
– Thưa bác, bác bỏ mất đoạn quan trọng
nhất trong bài của cháu. Vì cháu nghĩ, vị chủ của bài thuốc nầy là con trùn,
nên nó dễ gây ngại dùng. Bắt con trùn còn gớm, làm thuốc càng ớn hơn, vì vậy để
câu đó, người ta tin chắc chắn nó sẽ cứu sống người bệnh, do đó người ta ráng
không gớm, rang bằng mọi giá làm thuốc để cứu bệnh nhân. Bác Hưởng nói:
– Giả dụ người bệnh đến giờ phải chết,
5-10 phút nữa sẽ chết, mà thuốc của cháu lại cần đến 60 phút mới cứu sống. Vậy
làm sao bảo đảm 100% được? Thận trọng vẫn hơn cháu à. Trong ngành y không nên
nói câu đó.
– Thưa bác, nhưng kinh nghiệm thực tế của
cháu đã cho thấy rõ, thuốc có uống khỏi cổ là đã chắc sẽ sống rồi. Bác Hưởng
không bằng lòng nên nói:
– Tôi nhắc lại, ngành y không cho phép
nói bảo đảm cứu sống 100%.
Bác cháu tôi tranh luận như vậy. Nhưng
vài tháng sau, đến Hội nghị tổng kết dịch sốt xuất huyết toàn miền Bắc, do Sở Y
tế Hà Nội tổ chức, tôi nhận được thư mời của đồng chí Giám đốc Sở Y tế Hà Nội.
Trong giấy mời đồng chí viết: “Trong cuộc chống dịch sốt xuất huyết vừa qua, Bộ
có sử dụng bốn bài thuốc Nam do nhân dân đóng góp. Nói chung, thuốc Nam trị bệnh
này đạt hiệu quả rõ ràng và nhanh chóng hơn Tây y. Tuy nhiên, trong các bệnh
nhân dùng ba bài thuốc kia, vẫn có những ca tử vong. Duy chỉ có bài “trùn đất”
của đồng chí là cứu sống 100%, không có ca tử vong nào. Mặc dù bài thuốc đó đã
dùng cho tất cả các bệnh nhân nặng nhất. Vì vậy, mời đồng chí dự hội nghị tổng
kết.
Cuộc họp đó có khoảng hơn 200 người đến
dự, gồm Hội đồng Kỹ thuật của Bộ, các giám đốc bệnh viện quận và huyện ngoại
thành, các lương y và sư sãi tham gia trị bệnh cứu người. Báo cáo của tôi trả lời
các câu hỏi của đồng chí giám đốc sở cùng nhiều câu hỏi khác, đã được hội nghị
vỗ tay hoan hô hồi lâu.
Bài
thuốc gồm 3 vị
Trùn đất, đậu đen, bù ngót. Trong quá
trình trị bệnh cứu người, tôi có gia thêm vị thứ tư là đậu xanh. Vì tôi nghĩ:
đào trùn có khi ở gốc chuối, có thể có những chai lọ hóa chất, hoặc trùn đào tại
các cây có độc như xương rồng, sầu đâu, chùm ruột, ít nhiều bị nhiễm độc, sẽ có
đậu xanh giải độc.Từ khi tôi thêm vị đậu xanh, năm 1954 đến nay, thuốc vẫn đẩy
lùi bệnh sau 65 phút, y như thang gốc. Nghĩa là hầu hết các trường hợp cứu bệnh
tôi kể trên, thuốc đều có 4 vị, tức có thêm đậu xanh.
Bài
thuốc như sau:
1/Địa long 50g mỗi thang, tương đương 50
con trùn tươi (Xin mách : ở khu chợ thuốc bắc, đường Hải Thượng Lãn Ông Chơ Lớn
lúc nào cũng sẵn, muốn mua cả tạ cũng có). Nếu không có điều kiện mua Địa Long
thì đào trùn tươi (loại màu sẫm rất dai, đào trúng nó, nó không giãy co lại
thành 1 núi tròn). 50 con cho liều người lớn hoặc từ 15-16 tuổi trở lên. 30 con
cho trẻ từ 5-6 tuổi đến 13-14 tuổi. 20 con cho trẻ từ 1-2 tháng tuổi đến 5-6 tuổi.
2/ Đậu đen,
3/ Đậu xanh mỗi thứ 100g (sách cổ ghi: 1
bụmto).
4/ Rau bù ngot bằng 2-3 mớ bán ở chợ,
khoảng 200-300g, băm nhỏ cả cọng và lá.
Trùn rọc ra, rửa sạch sao thơm giòn, giã
nhỏ. Đậu và rau sao thơm, tất cả cho vào siêu hoặc nồi đất hay nồi nhôm gang đều
được. Cho vào 4 chén nước, sắc còn 1/2 hoặc 1/3 chén cho người bất tỉnh, phải cạy
răng đổ. Thuốc nầy uống 1 thang cũng thấy hết bệnh, nhưng tôi thường cho uống 3
thang trong 3 ngày (tối nước nhất, sáng nước nhì). Hai thang sau để trừ căn và
triệt các di chứng (sốt xuất huyết dễ hư tim, óc … ) cho nên khi uống thang thứ
2, thứ 3, bệnh nhân đã tỉnh táo. Thuốc có thể pha đường cho dễ uống. Bù ngót
sao thật khô giòn, thuốc sẽ có vị thuốc bắc. Bù ngót để tươi sắc không sao, nước
thuốc giống chè đậu đen pha đường uống rất ngon. Thuốc nầy bệnh càng nặng càng
thấy rõ hiệu quả 65 phút. Bệnh nhẹ ít thấy rõ kết quả 65 phút, nhưng bệnh vẫn
lui.
Nhân đây tôi xin nói rõ thêm hội nghị tổng
kết chống bệnh sốt xuất huyết đợt 1 họp năm 1970. Thông tin nầy được đưa ra
toàn thế giới. Nước Nhật nghiên cứu, ứng dụng điều trị. Đến năm 1972, đọc trên
tạp chí Đông y của Việt Nam (in bằng khổ quyển Kiến thức ngày nay) tôi thấy có
dịch và in lại những bài trong tạp chí Đông y Nhật Bản. Họ hết lời ca ngợi “bài
thuốc con trùn của Việt Nam”, dùng trị siêu vi trùng rất có hiệu quả.
Nguồn: https://phat-phap.rhcloud.com/2015/03/21/bai-thuoc-than-duoc-cuu-menh/