2014-05-30

AN CUNG NGƯU HOÀNG HOÀN: UỐNG SAI TẤT CÓ HẠI

AN CUNG NGƯU HOÀNG HOÀN:
UỐNG SAI TẤT CÓ HẠI
CHUYÊN GIA TRUNG Y PHÂN TÍCH TỈ MỈ SỰ MÊ TÍN “THẦN DƯỢC”

        Công dụng chủ yếu của An Cung Ngưu Hoàng Hoàn (ACNHH) là thanh nhiệt giải độc, trấn kinh khai khiếu (chống co giật và hồi sinh), trong dân gian vẫn phong là “thần dược” cấp cứu trúng phong, không ít gia đình chuẩn bị sẵn một vài viên để thời khắc quan trọng có thể cầu mong công hiệu “khởi tử hồi sinh”. Chính vì vậy, một thời gian dài, mọi người vẫn truyền nhau tác dụng thần kỳ của ACNHH. ACNHH được sản xuất trước năm 1993, có lúc trên mạng, giá được đẩy lên đến hơn 1 vạn tệ/1 hoàn. Nhưng chuyên gia trung y nói rằng, trong dân gian tồn tại nhiều ngộ nhận liên quan đến cách dùng và hiệu quả điều trị của ACNHH, cần đặc biệt làm sang tỏ.

Ngộ nhận 1: Phàm trúng phong (Tai biến mạch máu não) tất dùng ACNHH.
   
      Có người cho rằng, ACNHH đã là thuốc “chủ trị trúng phong hôn mê”, thế thì khi trong gia đình có người già đột nhiên xuất hiện triệu chứng nói “méo tiếng”, chân tay yếu, tê dại cứ cho người bệnh uống ngay 1 viên rồi đi bệnh viện sau.

      Tiến sỹ Y Khoa Hạnh Vũ Kiên, Giám đốc BV số 3 Quảng Châu trực thuộc Viện Y học Dân tộc nói, ACNHH tuy có tác dụng điều trị trúng phong thời kỳ cấp tính, nhưng vì dược tính hàn lương, cần chú ý biện chứng sử dụng. Những người tố chất tỳ vị hư hàn đặc biệt cần thận trọng khi dùng. Những người bị hôn mê đàm nhiệt có thể uống, những người không rõ đàm nhiệt hoặc tỳ vị hư hàn dùng không phù hợp, nếu dùng có thể làm bệnh tình nặng thêm. Ví dụ: Hai bệnh nhân cùng là trúng phong hôn mê, một người cần dùng thuốc thanh nhiệt hóa đàm, tỉnh thần khai khiếu; nhưng người kia lại phải dùng thuốc ôn hóa đàm thấp, tỉnh thần khai khiếu. Những điều này, không có chuyên môn thì không thể hiểu được, tất cần thầy thuốc Đông Y biện chứng xử lý.

      Tiến sỹ Hạnh Vũ Kiên nói, chỉ có trúng phong NHIỆT BẾ, tức xuất hiện triệu chứng “đột nhiên hôn mê, mặt đỏ thở thô, mắt miệng méo lệch” mới là chứng thích hợp dùng ACNHH. Các loại trúng phong khác đều không phải là những chứng dùng ACNHH. Ví vụ: trúng phong thoát chứng hôn mê (có các triệu chứng rêu lưỡi trắng trơn, hàn đàm tăng tiết) không được dùng ACNHH, nếu không, sẽ làm bệnh nặng thêm.

Ngộ nhận 2: Dùng ACNHH để dự phòng bệnh tim mạch.

     ACNHH là thuốc cấp cứu, Đông Y chỉ dùng điều trị chứng cấp tính, chứ không phải là thuốc dự phòng. Tiến sỹ Hạnh Vũ Kiên chỉ rõ, người bệnh tim,mạch não, nhất định phải điều trị đúng bệnh. Ví dụ: huyết áp cao thì cần uống thuốc hạ áp; mỡ máu cao cần uống thuốc hạ mỡ máu v.v. Uống ACNHH để dự phòng, chỉ làm chi phí tăng cao mà tác dụng hạ huyết áp không thể so sánh với các thuốc hạ áp.

      Hơn nữa, ACNHH có chứa chu sa và hùng hoàng v.v…có tính độc. Dược điển ghi ró: thành phần chủ yếu của chu sa là sulfua thủy ngân. Hàm lượng thủy ngân khoảng 86,2%, lưu huỳnh khoảng 13,8%. Do có chứa chu sa nên không thể uống ACNHH quá liều hoặc nhiều ngày. Đặc biệt là những người có công năng gan, thận bất thường không nên dùng để tránh ngộ độc thủy ngân, làm bệnh tình nặng thêm.

      Cũng vì vậy, ACNHH không thể dùng nhiều ngày, khi bệnh nhân hồi tỉnh phải ngừng uống.

Ngộ nhận 3: Di chứng hậu trúng phong cũng uống ACNHH

      Sau thời kỳ trúng phong cấp tính, rất nhiều bệnh nhân vẫn có các di chứng với các mức độ khác nhau (nói không lưu loát, bán thân bất toại, méo miệng). Giai đoạn này gọi là thời kỳ di chứng hậu trúng phong. Tiến sỹ Hạnh Vũ Kiên nói, tính mạng bệnh  nhân lúc này đã cứu được rồi, nhưng khả năng nói ít nhiều cũng bị ảnh hưởng, lúc này cần sớm tiến hành điều trị phục hồi chức năng.

      Trong thời kỳ hồi phục, người bệnh trúng phong có thể tiến hành các loại phương pháp trị liệu và tập luyện hồi phục chức năng, trong đó có thuốc đông y, massage, châm cứu v.v…Vào lúc này, ACNHH không những vô hiệu, mà với người có thể chất kém còn có thể xuất hiện triệu chứng hoa mắt chóng mặt, tiêu chảy v.v…

Ngộ nhận 4: ACNHH càng được sản xuất từ lâu càng tốt

     Đông dược cũng có hạn dùng, thuốc đông y thành phẩm nói chung có hạn dùng 2-3 năm; hạn dùng dài nhất là 5 năm; thuốc đông y dạng viên thường có hạn dùng 1 năm.

         ACNHH thuộc loại đông dược thành phẩm. Xạ hương thiên nhiên và ngưu hoàng trong ACNNH là những loại dược liệu thơm dễ bay mùi, để lâu nhất định ảnh hưởng công hiệu. Trên mạng, cái gọi là ACNHH càng được sản xuất từ lâu càng tốt, giá cao tới mức hơn 1 vạn tệ/1 hoàn, chỉ là xảo thuật buôn bán mà thôi, không có cơ sở khoa học.

Ngộ nhận 5: Massage cũng dùng ACNHH

      Massage chủ yếu là thông qua tác động của bàn tay lên các vùng cơ thể, điều hòa sinh lý, tình trạng bệnh lý của cơ thể để đạt được hiệu quả điều trị.

      Dùng ACNHH như một chất “tinh dầu”, chất “dẫn truyền thần kinh” khi massage, chẳng những lãng phí mà cũng không thu được hiệu quả của ACNHH, chỉ làm tăng chi phí của người bệnh. Nói rằng, massage cũng cần dùng ACNHH, thực sự chỉ là thủ pháp của người làm massage lôi kéo mọi người mua thuốc mà thôi.

       Người dịch: Bác sỹ Lâm Hữu Hòa.
                                 093 650 9494

2014-05-22

AN CUNG NGƯU HOÀNG HOÀN CHỈ TRỊ CHỨNG TRÚNG PHONG DƯƠNG BẾ

AN CUNG NGƯU HOÀNG HOÀN CHỈ TRỊ CHỨNG TRÚNG PHONG DƯƠNG BẾ
     
Tác giả: Dương Tương Quốc (杨相国)

Tôi làm lâm sàng Trung Y mấy chục năm, phát hiện thấy khá nhiều bệnh nhân trúng phong (tai biến mạch máu não-chú thích của người dịch, BS Lâm Hữu Hòa) lạm dụng An Cung Ngưu Hoàng Hoàn (ACNHH). Kết quả là chỉ có bệnh nhân trúng phong DƯƠNG BẾ chứng mới có công hiệu, còn bệnh nhân trúng phong ÂM BẾ chứng, trúng phong THOÁT chứng, trúng phong KINH LẠC và DI CHỨNG hậu trúng phong thì hầu như hay không có công hiệu, thậm chí còn làm bệnh tình nghiêm trọng hơn hoặc nguy hiểm tới sinh mạng.

NGƯU HOÀNG trong ACNHH có tác dụng thanh tâm giải độc, thanh nhiệt trừ phong, thông đàm khai khiếu; SỪNG TÊ có tác dụng định kinh (an thần), lương huyết giải độc (ngày nay vì luật cấm dùng sừng tê nên dược liệu này được thay bằng sừng trâu nước- chú thích của người dịch, BS Lâm Hữu Hòa); XẠ HƯƠNG có khả năng khai khiếu tỉnh thần, thông bế cường tâm; BĂNG PHIẾN tạo hương thơm khai khiếu, thanh nhiệt chỉ thống; UẤT KIM tạo hương thơm trừ uế; HOÀNG LIÊN, HOÀNG CẦM, CHI TỬ có khả năng thanh nhiệt trừ phiền, tiêu hỏa giải độc; HÙNG HOÀNG có khả năng thông đàm giải độc; CHÂU SA, TRÂN CHÂU, VÀNG LÁ có khả năng an thần chấn kinh. Các dược liệu kể trên được phối hợp trong ACNHH có công hiệu đặc thù độc nhất đối với trúng phong DƯƠNG BẾ chứng.

Nhưng trúng phong Trung Y phân thành hai loại: Trúng phong KINH LẠC và trúng phong TẠNG PHỦ. Nói chung, bệnh nhân trúng phong kinh lạc không thay đổi thần chí (tỉnh táo), tức bệnh nhẹ; bệnh nhân trúng phong tạng phủ có thần chí không tinh (nói sảng), tức bệnh nặng. Trúng phong tạng phủ lại chia thành hai loại: Trúng phong BẾ CHỨNG và trúng phong THOÁT CHỨNG. Trúng phong BẾ CHỨNG lại chia ra: Trúng phong DƯƠNG BẾ CHỨNG và trúng phong ÂM BẾ CHỨNG. Những bệnh nhân trúng phong tạng phủ đều có triệu chứng đột nhiên hôn mê, bất tỉnh nhân sự, miệng ngậm hàm cắn chặt, hai tay nắm chặt cứng, bí đại tiểu tiện, chi thân co giật. Nhưng dương bế chứng còn có sắc mặt đỏ, thân thể nóng, hơi thở thô, tứ chi động bất an, tâm phiền miệng hôi, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng trơn, mạch huyền hoạt và nhanh v.v. Còn âm bế chứng có thêm sắc mặt trắng môi tím, nằm yên bất động, tứ chi không ấm, đàm dãi tăng tiết, rêu lưỡi trắng trơn, mạch trầm hoạt và chậm. Còn bệnh nhân trúng phong thoát chứng thì đột nhiên hôn mê, bất tỉnh nhân sự, mắt nhắm miệng mở, thở yếu nhưng ồn (phát thành tiếng khi thở qua mũi), tay buông chi lạnh, mồ hôi ra không ngừng, đại tiểu tiện không tự chủ, chi liệt mềm, lưỡi liệt, mạch nhỏ yếu hoặc không bắt được. Đến mức chi lạnh mồ hôi ra rất nhiều, đờm dãi ra nhiều, mạch phù đại vô căn hoặc mạch nhỏ yếu không bắt được là thoát chứng nguy hiểm.

ACNHH là thuốc cấp cứu của Trung Y. Đối với trúng phong, ACNHH chỉ dùng điều trị TRÚNG PHONG DƯƠNG BẾ CHỨNG.

Ngoài trúng phong dương bế chứng ra, ACNHH còn được dùng trong các chứng nhiệt bế khác. Ví dụ: viêm não Nhật Bản, viêm màng não dịch tễ, bệnh lị nhiễm độc, urê huyết cao, hôn mê gan v.v.  


       Người dịch: BS Lâm Hữu Hòa.
                               093 650 9494

2014-05-17

Hướng dẫn sử dụng An Cung Ngưu Hoàng Hoàn

Hướng dẫn sử dụng An Cung Ngưu Hoàng Hoàn
(Dịch theo bản hướng dẫn của Đồng Nhân Đường Bắc Kinh, Công ty sản xuất An Cung Ngưu Hoàng Hoàn. Người dịch: Bác sỹ Lâm Hữu Hòa)

Thành phần: Ngưu hoàng, bột sừng trâu , xạ hương, trân châu (ngọc trai), chu sa, hùng hoàng, hoàng liên, hoàng cầm, chi tử, uất kim, băng phiến.

Tính trạng: Sản phẩm này là một viên huàn lớn hoặc viên huàn lớn có lớp vỏ màu vàng, sau khi bỏ lớp vỏ màu vàng là màu vàng cam đến nâu đỏ; mùi thơm, vị đắng.

Công năng, chủ trị: Thanh nhiệt giải độc, trấn kinh khai khiếu. Dùng trong sốt, tà nhập tâm bào, sốt cao hôn mê, mê sảng; trúng phong hôn mê, viêm não, viêm màng não, bệnh não do trúng độc, xuất huyết não, chứng bại huyết (tiêu huyết) gặp ở những người mắc các chứng nêu trên.

Quy cách: mỗi viên hoàn 3g.

Phương pháp sử dụng: Uống 1 viên x 1 lần/ngày. Trẻ em dưới 3 tuổi ¼ viên; trẻ em 4-6 tuổi ½ viên x 1 lần/ngày.

Phản ứng phụ: Hạ thân nhiệt, dị ứng.

Cấm kỵ: Hiện tại không có.

Chú ý:
1)     Thuốc này dùng trong trường hợp hôn mê nhiệt bế; không được dùng trong hôn mê hàn bế.
2)     Thuốc này có chứa xạ hương, hương thơm khuếch tán, làm thương tổn thai vì vậy thai phụ dùng thận trọng
3)     Trong thời kỳ uống thuốc, cần ăn uống thanh đạm, kỵ thức ăn cay và chất béo, để tránh sinh đàm.
4)     Thuốc này có chứa chu sa, hùng hoàng, không dùng quá liều hay lâu dài; người có công năng gan thận kém dùng thận trọng.
5)     Trong khi điều trị, nếu xuất hiện da lạnh, sắc mặt trắng, vã mồ hôi lạnh, mạch suy là lúc bế chứng biến thành thoát chứng, phải ngừng uống.
6)     Những người hôn mê sốt cao, trúng phong hôn mê…khó uống thuốc thì dùng thuốc qua ống đường mũi.
7)     Thai phụ, người cho con bú, trẻ em, người già dùng thuốc này theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc.
8)     Vận động viên và người có thể chất dị ứng dùng thận trọng
9)     Trẻ nhỏ uống thuốc, bắt buộc dưới sự giám sát của người lớn.
10) Nếu bạn đang dùng các loại thuốc khác, xin vui lòng tham khảo ý kiến thầy thuốc trước khi sử dụng sản phẩm này.
11)  Trước khi uống, phải bóc bỏ vỏ sáp, nhựa và giấy bóng kính, không được nuốt cả viên thuốc chưa bóc vỏ.

              Người dịch: BS Lâm Hữu Hòa.
                                     093 650 9494