2016-03-10

DÙNG CỨU NGẢI CHỮA BƯỚU GIÁP NHÂN



DÙNG CỨU NGẢI CHỮA BƯỚU GIÁP NHÂN
http://blog.39.net/shanguimin/a_12365944.html  2012-03-18  Thiền Quế Mẫn (单桂敏)

Rất nhiều người hỏi về việc dùng cứu ngải để chữa bướu giáp nhân (BGN) có tác dụng không. Câu trả lời của tôi là nhất định có tác dụng. Nhưng cũng cần phải xem bản chất của nhân tuyến giáp của mỗi bệnh nhân cụ thể là thuộc loại nào. Có người sau khi cứu, nhân tuyến giáp tiêu đi hoặc nhỏ lại. Nhưng cũng có người sau một thười gian cứu ngải rất dài cũng chẳng thấy hiệu quả rõ ràng. Vì vậy, tôi nhấn mạnh rằng, cứu ngải không phải là phương pháp vạn năng! Tỷ lệ điều trị khỏi của phương pháp này không phải là 100%. Hy vọng rằng, những bạn (trên mạng) tham gia cứu ngải hãy chuẩn bị tốt tâm lý, đừng có kỳ vọng quá cao vào phương pháp này.

BGN là một loại bệnh rất thường gặp, nhất là ở phụ nữ trung niên. Trên lâm sàng, có nhiều chủng loại BGN. Ví như: tổ chức tuyến giáp biến đổi có tính chất thoái hóa, viêm (vô khuẩn), tự miễn dịch và tân sinh v.v…đều có thể biểu hiện bằng BGN. BGN có thể là đơn nhân, có thể là đa nhân. BG đa nhân chiếm tỷ lệ cao hơn đơn nhân, nhưng tỷ lệ biến thành ác tính của BG đơn nhân cao hơn BG đa nhân.

BGN dùng để chỉ hiện tượng có một hoặc vài khối tổ chức trong nhu mô tuyến giáp, do nhiều nguyên nhân gây ra, Khi bệnh nhân nuốt, các nhân này cũng chạy lên xuống theo tuyến giáp.

Dựa vào lâm sàng và tổ chức học, có thể phân thành: nang máu (u máu), nang keo, nhân đặc, nhân hốn hợp, nhân có tính chất viêm…

Dùng cứu ngải như thế nào để điều trị BGN?

Sau hơn 40 năm dùng cứu ngải để chữa bệnh, tôi thấy tỷ lệ hết viêm, hết các u lành tính là rất cao. Cứu ngải có thể điều trị u xơ tử cung, viêm hố chậu nhỏ tích dịch, u nang buông trứng và đối với bệnh lý u (lành tính) các loại khác cũng có tác dụng điều trị khỏi ở mức tương tự. Tôi nghĩ, điều hết sức cần thiết là phải kiên trì. Hơn nữa, điều trị u nang có tỷ lệ khỏi rất cao; vì vậy, cứu ngải điều trị u máu, nang keo, nhân viêm kết quả cũng không tồi.

Chọn huyệt để điều trị: Cứu ngải Á thị huyệt là bắt buộc, có tác dụng tác động trực tiếp vào nơi bị bệnh, làm nhân thu nhỏ lại. Nếu nhân nhỏ hơn 1,5 cm thì có thể chỉ theo dõi, nếu nhân lớn hơn 1,5 cm thì nên nghĩ đến việc điều trị. Nếu trong khi điều trị, phát hiện nhân to lên nhanh thì phải đến ngay BV để kiểm tra. Bởi vì có một tỷ lệ nhỏ nhân tuyến giáp là ác tính, chúng ta không đủ khả năng tự phán đoán.

Ở chỗ này, tôi (BS Lâm Hữu Hòa) xin nói thêm: Trước khi điều trị, người điều trị bắt buộc phải xác định được bướu giáp có hoạt động hay không; chức năng tuyến giáp cường hay suy hay bình giáp; nhân tuyến giáp là lành tính hay ác tính… bằng cách làm các xét nghiệm cần thiết, nhất là chẩn đoán tế bào học. Chỉ khi xác định BGN bình giáp, lành tính thì mới tiến hành điều trị bằng phương pháp cứu ngải.

Ngoài Á thị huyệt, cần cứu các huyệt: Trung Quản, Thần Khuyết, Quan Nguyên, Túc Tam Lý, Mệnh Môn. Mỗi ngày có thể chọn vài huyệt để cứu luân phiên, nhưng Á Thị Huyệt (nơi tổn thương, tức nhân tuyến giáp) thì phải cứu hàng ngày. Đồng thời nên khai thông kinh Can-Đởm: cứu các huyệt Chương Môn, Thái Xung, Can Du, Dương lăng tuyền; cũng có thể mỗi ngày chọn vài huyệt để cứu luân phiên.

Đông Y cho rằng, thận âm bất túc, thủy bất hàm mộc (nước không thấm để nuôi cây), can âm thất liễm. Trên cơ sở đó, tình chí thất điều bất phục, tinh thần thương tổn. Dược điển cổ đại quy BGN vào phạm trù “Bướu cổ” và cho rằng: “những người bị bướu cổ là do lo buồn, oán giận, khí kết mà sinh ra bướu cổ”.

Đông Y cũng sớm nhận thức được rằng yếu tố tình chí và tinh thần có ảnh hưởng tới việc phát sinh bướu cổ. Tình chí uất ức, can bất thông tiết, khí uất hóa hỏa. Nếu thể chất mà là can, thận âm hư nhược (âm hư sinh nội nhiệt) sẽ càng dễ luyện dịch thành đàm làm nghẽn tắc kinh lạc, kết lại vùng dưới cổ tạo thành bướu.

                             Người dịch: BS Lâm Hữu Hòa.
                                                093 650 9494

Không có nhận xét nào: